Trong chuyến công tác đến bản Bàn, chúng tôi tìm gặp ông Tình – nghệ nhân cuối cùng ở huyện Mường Lát, Thanh Hóa biết thổi và chế tác khèn bè.
Ông Tình kể: Để có được cây khèn bè hoàn chỉnh thật đẹp, thật hay, phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi người chế tác khèn phải có sự khéo léo, tinh tế, cầu kỳ và sự tinh tường trong thẩm âm. Đặc biệt, người chế tác phải thật sự đam mê khèn mới có thể làm ra được một cây khèn ưng ý.
Để làm cây khèn, ông Tình phải dành 7-10 ngày, có khi cả tháng. Ông đi xe máy cách nhà chừng 5 km để tìm cây mạnh pao – nguyên liệu chính dùng làm khèn.
Cây mạnh pao có thân gần giống cây nứa song nhỏ và ống dài hơn. Loại cây này chỉ mọc ở những triền đồi cao vùng biên giới giáp Lào hoặc các cánh rừng xa nên mất nhiều công sức tìm kiếm. Ông Tình băng rừng lấy mỗi lần được vài trăm cây, đem về dùng trong nhiều tháng. Khi nào hết, ông lại vào rừng chặt tiếp.
“Tôi phải vào rừng chọn cây bánh tẻ, nhỏ, mỏng về phơi nắng từ 15 – 20 ngày. Trước khi cây chuyển sang màu vàng mới bắt đầu cắt theo kích cỡ từ 80cm đến 1m”, ông Tình chia sẻ.
Nghệ nhân sẽ dùng một que sắt dài, nhọn đầu để xuyên thủng những chiếc mắt trong thân cây.
Những cây bị cong, ông Tình phải hơ lửa rồi cho vào chiếc khuôn uốn ép sao cho vừa ý.
Mỗi cây khèn thường có 14 ống nứa, xếp thành 7 cặp song song nhau. Sau khi uốn thẳng, ông Tình cẩn thận luồn từng ống khèn vào Pố khèn sao cho đủ mỗi bên 7 ống.
Pố khèn vừa có chức năng gia cố chiếc khèn cho chắc chắn, cũng là nơi người thổi truyền hơi thở vào trong thân khèn theo nhịp, giúp nó phát ra thứ âm thanh trầm bổng.
Sau khi cây khèn đã thành hình trên pố và đã được gia cố bằng dây lạt xong xuôi, nghệ nhân dùng chiếc cưa nhỏ cẩn thận cắt từng ống một sao cho thật đều nhau.
Trước đó ông dùng mũi dao nhọn chích ngang thân cây mạnh pao một lỗ hình chữ nhật vừa đủ để lắp lưỡi đồng vào giữa khe hở.
Các lá đồng cũng do ông Tình làm thủ công. Đồng được chọn là loại nguyên chất, không bị gỉ sét theo thời gian.
“Khèn có 3 cỡ lưỡi, phải làm bằng đồng nguyên chất mới bền và khi rung mới cho âm thanh tốt nhất. Làm lưỡi là một trong những công đoạn khó nhất. Khi hơi thổi vào tạo ra áp lực, lá đồng sẽ rung lên và đóng mở theo nội dung của bài khèn nghệ nhân đang thổi, ông Tình cho hay.
Trung bình, thời gian nghệ nhân Hà Văn Tình hoàn thiện một cây khèn mất khoảng một tuần. Khèn làm ra đươc đem tặng hoặc bán cho những người có cùng đam mê.
Theo ông Ngân Trọng Hiệp, Chủ tịch UBND xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát: “Người dân tộc Thái chiếm 98% trong tổng số gần 5.700 nhân khẩu ở Quang Chiểu, nhưng người biết thổi khèn chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, còn người làm khèn thì chỉ còn ông Hà Văn Tình. Ngoài chế tác giỏi, ông Tình còn được đánh giá là người thổi khèn hay nhất vùng. Lúc rảnh rỗi, ông thường tập những giai điệu mới tặng vợ và cháu nhỏ”.
Chiếc khèn bè được ông Tình sử dụng rất đa dạng trong những ngày lễ truyền thống, ngày tết, đón khách, lúc làm vía, cưới hỏi… hay làm nền đưa đẩy những điệu xòe vòng, điệu khắp (hát chào khách, giao duyên…) của đồng bào dân tộc Thái.
Chúng tôi ngỏ ý muốn nghe giai điệu khèn bè, ông Tình cầm cây khèn trên tay thổi lên những giai điệu mượt mà, trầm bổng. Tiếng khèn vang vọng, bay bổng, sâu lắng, mang lại niềm vui ấm áp, làm xao xuyến lòng người. Trước sự phát triển của xã hội, và ngày càng có nhiều người trẻ vì đi làm ăn xa đã lãng quên giá trị văn hóa truyền thống, thì những người như ông Hà Văn Tình đang trở thành báu vật sống gìn giữ nét đẹp cho dân tộc Thái.